VNREBATES

GNP là gì? Phân biệt GDP hay GNP quan trọng hơn đối với một quốc gia

17.01.2023, 17:43 14 phút đọc

GNP thường xuyên xuất hiện cùng với GDP và cả hai khái niệm này đều rất quan trọng vì chúng cung cấp một bức tranh tổng quát về tăng trưởng kinh tế của một quốc gia. Vậy trong bài viết này, Vnrebates sẽ cùng bạn tìm hiểu GNP là gì? Tầm quan trọng của GNP đối với nền kinh tế và mối quan hệ giữa GNP và GDP.

Xem thêm:

GNP là gì?

Khái niệm về GNP là gì

GNP (Gross National Product) – Tổng sản phẩm quốc dân hay Tổng sản phẩm quốc gia là một chỉ tiêu kinh tế quan trọng nhằm đánh giá sự phát triển kinh tế của một quốc gia. GNP được tính là tổng giá trị bằng tiền của các sản phẩm cuối cùng và dịch vụ mà công dân của một nước làm ra trong một khoảng thời gian xác định, thông thường là một năm tài chính.

Trong đó, sản phẩm cuối cùng là hàng hóa được tiêu thụ cuối cùng bởi người tiêu dùng, không phải là những sản phẩm được sử dụng như là sản phẩm trung gian trong sản xuất các sản phẩm khác.

Các khái niệm cần lưu ý:

  • Công dân một nước: GNP do công dân một nước tạo ra – là những người mang cùng quốc tịch và không phân biệt họ cư trú ở lãnh thổ nào (kể cả ở trong nước và ở nước ngoài).
  • Sản phẩm trung gian: là những loại sản phẩm được dùng làm đầu vào cho sản phẩm khác và chỉ sử dụng một lần trong quá trình sản xuất.
  • Giá trị sản phẩm cuối cùng: tổng giá trị của khối lượng sản phẩm hàng hóa và dịch vụ sản xuất ra được gọi là tổng sản lượng (Gross Output)

Mỗi loại sản phẩm đều có thể đóng vai trò là sản phẩm trung gian hoặc sản phẩm cuối cùng tuỳ theo mục đích sử dụng của con người. Chẳng hạn, khi dùng cá tươi, điện,… để làm thành cá đóng hộp thì phần cá, và điện đó là sản phẩm trung gian. Nhưng nếu cá tươi và điện được dùng để nấu ăn hoặc để xuất khẩu thì phần cá và điện này lại là sản phẩm cuối cùng của nền kinh tế.

Chỉ có sản phẩm cuối cùng mới được tính trong thu nhập quốc gia, do việc đưa cả sản phẩm trung gian vào sẽ dẫn tới việc tính kép làm tăng ảo giá trị thực sự của thu nhập quốc gia.

GNP đo lường sản lượng của công dân của một quốc gia bất kể vị trí của hoạt động kinh tế cơ bản thực tế. Thu nhập từ các khoản đầu tư ra nước ngoài của công dân của một quốc gia được tính bằng GNP, và đầu tư nước ngoài trong biên giới của một quốc gia thì không.

Từ năm 1991 trở về trước, GNP được nước Mỹ làm thước đo hoạt động kinh tế chính của mình còn sau đó GDP được xem là thước đo chính.

Thu nhập được tính như là một phần của GNP, phụ thuộc vào ai là chủ sở hữu các yếu tố sản xuất chứ không phải là việc sản xuất diễn ra ở đâu.

Ví dụ: Một nhà máy sản xuất ô tô do chủ sở hữu là công dân Nhật Bản đầu tư tại Việt Nam thì lợi nhuận sau thuế từ nhà máy sẽ được tính là một phần của GNP của Nhật Bản chứ không phải của Việt Nam. Bởi vì vốn sử dụng trong sản xuất (nhà xưởng, máy móc, v.v.) là thuộc sở hữu của công dân người Nhật Bản. Tuy nhiên lương của công nhân người Việt Nam làm việc tại nhà máy đó là một phần của GNP của Việt Nam, trong khi lương của công nhân Nhật Bản làm việc tại đó là một phần của GNP của Nhật Bản.

Phân loại GNP

Do giá cả là một thước đo co giãn và lạm phát thường xuyên đưa mức giá chung lên cao. Do vậy, GNP tính bằng tiền có thể tăng nhanh chóng trong khi giá trị thực của tổng sản phẩm tính bằng hiện vật có thể không tăng hoặc tăng rất ít.

Để khắc phục nhược điểm này, các nhà kinh tế thường sử dụng cặp khái niệm:

  • GNP danh nghĩa (GNPn), đo lường tổng sản phẩm quốc dân sản xuất ra trong một thời kỳ, theo giá cả hiện hành, tức là giá cả của cùng thời kỳ đó.
  • GNP thực tế (GNPr), đo lường tổng sản phẩm quốc dân sản xuất trong một thời kỳ, theo giá cố định ở một thời kỳ được lấy làm gốc.

Cầu nối giữa GNPn và GNPr là chỉ số giá cả, còn gọi là chỉ số lạm phát (D) tính theo GNP.

Chỉ tiêu GNPn và GNPr thường được dùng cho các mục tiêu phân tích khác nhau. Chẳng hạn, khi muốn nghiên cứu mối quan hệ tài chính, ngân hàng, người ta thường dùng GNPn; khi cần phân tích tốc độ tăng trưởng kinh tế người ta thường dùng GNPr.

Sự khác biệt giữa GNP và GNI

Ngoài ra, còn một chỉ số khác thường được nhắc đến cùng với GNP đó là chỉ số GNI (Gross National Income) – Tổng thu nhập quốc gia hay Tổng thu nhập quốc dân. Giá trị của GNI tương đương với giá trị của GNP.

Tuy nhiên sự khác biệt giữa GNP và GNI chính là do cách thức tiếp cận vấn đề dựa trên các cơ sở khác nhau. GNP dựa trên cơ sở sản xuất ra sản phẩm mới, còn GNI dựa trên cơ sở thu nhập của công dân.

Điều này là quan trọng để tiếp cận các khái niệm GNP và GNI. Khi đó phải tính đến khấu hao và các loại thuế gián tiếp, và GNI sẽ luôn luôn nhỏ hơn GNP một lượng bằng giá trị của thuế gián tiếp.

Sự khác biệt giữa GNP và GNI

Sự khác biệt giữa GNP và GNI (Nguồn: Internet)

Công thức tính GNP

Công thức 1:

Tổng sản phẩm quốc dân GNP của một quốc gia bất kỳ trong 1 năm tài chính được tính theo quan điểm chi tiêu xã hội sử dụng công thức sau:

GNP = C + I + G + (X – M) + NR

Trong đó:

  • C = Chi phí tiêu dùng cá nhân
  • I = Tổng đầu tư cá nhân quốc nội
  • G = Chi phí tiêu dùng của nhà nước
  • X = Kim ngạch xuất khẩu ròng các hàng hóa và dịch vụ
  • M = Kim ngạch nhập khẩu ròng của hàng hóa và dịch vụ
  • NR= Thu nhập ròng từ các tài sản ở nước ngoài (thu nhập ròng)

Công thức 2: 

GNP có mối quan hệ chặt chẽ với GDP, vì vậy GNP có thể được tính theo GDP như sau:

GNP = GDP + Thu nhập ròng từ nước ngoài

Nói cách khác, GNP trong công thức này được tính bằng cách dựa trên sự chênh lệch về các khoản thu nhập chuyển ra nước ngoài và chuyển vào trong nước.

Thu nhập ròng từ nước ngoài = Thu nhập từ các yếu tố xuất khẩu – Thu nhập từ các yếu tố nhập khẩu

Tầm quan trọng và hạn chế của GNP

GNP cho chúng ta biết quy mô thu nhập và mức sống của công dân một quốc gia. Khi nghiên cứu dãy số thời gian của GNP tính theo giá cố định, chúng ta biết được tình hình gia tăng thu nhập và cải thiện mức sống của cư dân một nước.

Tuy nhiên, nếu tốc độ tăng GNP thực tế thấp hơn tốc độ tăng dân số, mức thu nhập bình quân đầu người sẽ giảm. Vì vậy, khi phân tích và so sánh quốc tế về mức sống, người ta thường dùng chỉ tiêu thu nhập quốc dân đầu người, một chỉ tiêu được tính bằng cách lấy GNP tính theo chi phí nhân tố trừ đi quỹ khấu hao (D), sau đó chia cho dân số.

Mặc dù GNP được coi là một cách để đo lường sức khỏe kinh tế của một quốc gia, nhưng nó vẫn có những hạn chế. Đối với những cá nhân khởi nghiệp, kết quả sản xuất của một người mang hai quốc tịch có thể vô tình được tuyên bố bởi hai quốc gia khác nhau.

Ví dụ: Nếu một công dân Hoa Kỳ chuyển đến Canada và bắt đầu sản xuất các sản phẩm y tế, thì nỗ lực sản xuất của anh ấy sẽ được tính gấp đôi khi GNP toàn cầu được ước tính.

Hơn nữa, việc chỉ sử dụng GNP sẽ khiến việc so sánh nền kinh tế của các quốc gia khác nhau trở nên khó khăn. Khi ngày càng nhiều doanh nghiệp bắt đầu hoạt động trên quy mô toàn cầu (còn được gọi là toàn cầu hóa), mạng lưới thương mại quốc tế ngày càng phức tạp hơn — và việc so sánh nền kinh tế của một quốc gia này với một quốc gia khác cũng trở nên khó khăn hơn.

Hầu hết các quốc gia thực sự đo lường sức khỏe kinh tế của họ bằng cách sử dụng tổng sản phẩm quốc nội (GDP), điều mà Hoa Kỳ cũng bắt đầu làm vào đầu những năm 90.

Sự khác biệt và mối quan hệ giữa GNP và GDP 

GNP và GDP là 2 khái niệm tương đồng và luôn song hành với nhau trong các bảng so sánh, cân đối và các báo cáo thống kê.

Sự khác biệt và mối quan hệ giữa GNP và GDP 

Sự khác biệt và mối quan hệ giữa GNP và GDP (Nguồn: Internet)

Để hiểu rõ mối quan hệ giữa GDP và GNP là gì, đầu tiên bạn cần hiểu rõ GDP là gì?

GDP (Gross Domestic Product) – Tổng sản phẩm quốc nội hay Tổng sản phẩm nội địa. GDP là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh giá trị mới của hàng hóa và dịch vụ được tạo ra của toàn bộ nền kinh tế trong một khoảng thời gian nhất định (quý, 6 tháng, 9 tháng, năm). Tổng sản phẩm trong nước được tính theo giá thực tế và giá so sánh. Chỉ số bao gồm cả sản lượng sản xuất bởi các công ty nước ngoài đang làm việc trong lãnh thổ quốc gia, và loại trừ sản lượng tạo ra bởi các công ty nội địa ở nước ngoài.

GNP và GDP là những khái niệm có liên quan rất chặt chẽ và sự khác biệt chính giữa chúng xuất phát từ thực tế là có thể có các công ty thuộc sở hữu của người nước ngoài sản xuất hàng hóa trong nước và các công ty thuộc sở hữu của người dân trong nước sản xuất hàng hóa cho phần còn lại của thế giới và hoàn trả thu nhập kiếm được cho cư dân trong nước.

Trong việc tính toán giá trị của GNP và GDP có thể tạo ra các kết quả khác nhau về tổng sản lượng.

Ví dụ: vào năm 2019, GDP của Hoa Kỳ là 21,75 nghìn tỷ đô la, trong khi GNP của nó là 22,03 nghìn tỷ đô la. Trong khi GDP là thước đo được theo dõi rộng rãi nhất về hoạt động kinh tế của một quốc gia, GNP vẫn đáng lưu tâm vì sự khác biệt lớn giữa GNP và GDP có thể chỉ ra rằng một quốc gia đang tham gia nhiều hơn vào các hoạt động thương mại, sản xuất hoặc tài chính quốc tế.

Sự khác biệt giữa GNP và GDP của một quốc gia càng lớn thì mức độ thu nhập và hoạt động đầu tư ở quốc gia đó liên quan đến các hoạt động xuyên quốc gia như đầu tư trực tiếp nước ngoài theo cách này hay cách khác càng lớn.

Chúng ta cùng xem một số ví dụ sau về cách tính GNP và GDP của Hoa Kỳ:

Sản lượng của một nhà máy của Toyota ở Kentucky không được tính vào GNP, mặc dù nó được tính vào GDP của Hoa Kỳ, vì doanh thu từ việc bán xe Toyota được chuyển đến Nhật Bản, mặc dù sản phẩm được sản xuất và bán ở Hoa Kỳ. Sản lượng này được tính vào GDP vì nó bổ sung vào sức khỏe của nền kinh tế Hoa Kỳ bằng cách tạo ra việc làm cho người dân Kentucky, những người sử dụng tiền lương của họ để mua hàng hóa và dịch vụ địa phương.

Tương tự, những đôi giày được sản xuất tại một nhà máy của Nike ở Hàn Quốc sẽ được tính bằng GNP của Hoa Kỳ, chứ không phải GDP, vì lợi nhuận từ những đôi giày đó sẽ thúc đẩy thu nhập và giá cổ phiếu của Nike, góp phần vào thu nhập quốc dân cao hơn. Nó không kích thích tăng trưởng kinh tế ở Hoa Kỳ vì những công việc sản xuất đó được thuê ngoài. Chính công nhân Hàn Quốc sẽ thúc đẩy nền kinh tế và GDP của đất nước họ bằng cách mua hàng hóa và dịch vụ địa phương.

Những ví dụ này cho thấy tại sao GNP không được sử dụng phổ biến như GDP làm thước đo nền kinh tế của một quốc gia. Nó đưa ra một bức tranh hơi thiếu chính xác về cách các nguồn lực trong nước được sử dụng. Ví dụ, nếu có một đợt hạn hán nghiêm trọng ở Hoa Kỳ, GNP sẽ cao hơn GDP vì tài sản nước ngoài của cư dân Hoa Kỳ sẽ không bị ảnh hưởng bởi hạn hán, không giống như các khoản đầu tư của người lao động nước ngoài của Hoa Kỳ.

Mối quan hệ rõ rệt nhất giữa GNP và GDP thể hiện như sau:

Mối quan hệ giữa GDP và GNP

Mối quan hệ giữa GDP và GNP (Nguồn: Internet)

Do GNP bao gồm GDP và phần chênh lệch tài sản từ nước ngoài nên chỉ số GNP bình quân đầu người sẽ là thước đo tốt hơn về số lượng hàng hóa và dịch vụ mà mỗi người dân của quốc gia đó có thể mua được.

Còn chỉ số GDP bình quân đầu người sẽ là thước đo tốt hơn về số lượng hàng hóa và dịch vụ được sản xuất ra tính bình quân cho một người dân của quốc gia đó. Đây cũng chính là lý do tại sao trong các thống kê của Ngân hàng Thế giới thường đưa ra các ước tính về chỉ số GNP của một quốc gia, trong khi các quốc gia tính bình quân đầu người lại dùng GDP.

Xem thêm: Tỷ giá hối đoái và các yếu tố chủ chốt ảnh hưởng đến tỷ giá

Kết luận

Trong khi GDP là thước đo sức khỏe của một nền kinh tế, GNP cho chúng ta biết về thu nhập thực tế của một quốc gia. GNP là giá trị của tất cả thu nhập mà công dân và doanh nghiệp của một quốc gia kiếm được, bất kể họ đang ở trong nước hay ở nước ngoài. Vậy, với những thông tin trong bài viết hôm nay, hy vọng các bạn đã có được lời đáp cho câu hỏi GNP là gì cũng như hiểu được mối quan hệ giữa GDP và GNP. Theo dõi VnRebates để cập nhật tin tức Forex, Chứng khoán, Tiền điện tử mới nhất.

VnRebates – Hoàn tiền mọi giao dịch tài chính

 

👉 Cập nhật Phương pháp trading mới và hiệu quả nhất trên thế giới bằng 4 Khóa học video miễn phí
Risk Disclaimer: Bài viết thể hiện quan điểm và góc nhìn của cá nhân tác giả, chỉ có giá trị tham khảo về mặt thông tin, kiến thức và không có giá trị pháp lý về khuyến nghị đầu tư hay thay thế cho việc tư vấn tài chính nào tương đương. Bài viết không đảm bảo bất kỳ khoản lợi nhuận nào hay giảm thiểu rủi ro đầu tư nào cho chính độc giả. VnRebates không chịu trách nhiệm hay liên quan đến khoản đầu tư của độc giả khi sử dụng thông tin từ bài viết này. Bản quyền thuộc về đóng góp của tác giả.